GIẤY TỜ CÓ GIÁ – MỘT LOẠI TÀI SẢN VỚI NHIỀU KHOẢNG TRỐNG PHÁP LÝ: VIỆN DẪN VÀ BÌNH LUẬN!
Từ khi ban hành Bộ luật dân sự 1995, đến Bộ luật dân sự 2005, và hiện tại là Bộ luật dân sự 2015, các Nhà lập pháp đều quy định rằng, tài sản bao gồm/là Giấy tờ có giá, ngoài các tài sản khác bao gồm/là vật/tiền/quyền tài sản (Riêng Bộ luật dân sự 1995, sử dụng cụm từ/thuật ngữ “Giấy tờ trị giá được bằng tiền”). Như vậy, Bộ luật dân sự luôn khẳng định Giấy tờ có giá là tài sản, và tài sản bao gồm Giấy tờ có giá.
Tuy nhiên, các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá - Thì Bộ luật dân sự không hề quy định. Thậm chí, Bộ luật dân sự cũng không đưa ra bất kỳ một định nghĩa/khái niệm nào, để làm tiêu chí, nhằm nhận diện các loại “Giấy tờ” phải có những đặc trưng/tính chất gì mới được xem là Giấy tờ có giá. Hay nói cách khác, Bộ luật dân sự - Một Đạo luật được xem là luật mẹ/luật mẫu trong lĩnh vực Luật tư, là Luật gốc quan trọng nhất quy định về tài sản, các loại tài sản – Nhưng đã để lại một khoảng trống rộng lớn, trong việc xác định các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá, cũng chính là khoảng trống pháp lý của việc xác định các loại “Giấy tờ” nào được xem là tài sản.
Trong quá trình thi hành Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005, khoảng trống pháp lý vừa nêu, đã gây ra rất nhiều bối rối cho những Chủ thể vận dụng cũng như thực thi pháp luật. Chẳng hạn như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là Giấy tờ có giá, có phải là tài sản hay không?! Mặc dù vậy, khi ban hành Bộ luật dân sự 2015, một Bộ luật được kỳ vọng sẽ tạo ra sự đột phá trong lĩnh vực Luật tư, vẫn “bỏ quên” vấn đề này, và khoảng trống pháp lý, vì thế - Còn vẹn nguyên.
Sự bối rối, lúng túng, trong việc xác định các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá, đương nhiên vẫn còn tồn tại trong thực tiễn. Bởi ngay đến như một chuyên khảo Bình luận khoa học về Bộ luật dân sự 2015, với sự góp mặt của nhiều Chuyên gia pháp lý tên tuổi đến từ các Cơ sở đào tạo luật hàng đầu trong nước, còn nhầm lẫn khi đã có sự đồng nhất làm một giữa Giấy tờ có giá là một loại tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự, với quy định về Giấy tờ có giá trong Luật Ngân hàng nhà nước, một đạo luật chuyên ngành, chỉ áp dụng trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng. Hay thậm chí như cuốn Từ điển luật học, còn có thể vì “thấy khó bỏ qua” khi không đưa ra bất kỳ một diễn giải nào về Giấy tờ có giá. Thì huống chi Bà con ta, làm sao để định danh đúng các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá, để từ đó xác định các loại “Giấy tờ” này, có phải là tài sản được đưa vào tham gia các giao dịch dân sự hay không?!
Như đã nói - Bộ luật dân sự không đưa ra bất kỳ một định nghĩa/khái niệm nào, để làm tiêu chí, nhằm nhận diện các loại “Giấy tờ” phải có những đặc trưng/tính chất gì mới được xem là Giấy tờ có giá. Đến lượt mình, các Luật chuyên ngành, đôi khi rải rác, có đưa ra quy định về Giấy tờ có giá – Nhưng như thế là không đủ. Chẳng hạn như: Luật Ngân hàng nhà nước quy định “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác” (Điều 6.8); Luật Các công cụ chuyển nhượng quy định “Công cụ chuyển nhượng (gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác, trừ công cụ nợ dài hạn được tổ chức phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường) là giấy tờ có giá” (Điều 4.1). Tuy nhiên, những Luật chuyên ngành này, chỉ có giá trị áp dụng hạn hẹp trong phạm vi lĩnh vực cụ thể nhất định, nên không thể bao quát hết phạm vi rộng lớn các loại “Giấy tờ” có thể được xem là giấy tờ có giá. Việc áp dụng tương tự pháp luật, cũng không thể vận dụng trong trường hợp này.
Rất hiếm hoi - Trước đây, Nghị định 163 năm 2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm (Được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11 năm 2012) có quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”. Đây là một quy định khá đầy đủ về Giấy tờ có giá, vì ngoài việc liệt kê cụ thể các giấy tờ được xem là có giá, còn đưa ra những tiêu chí, để nhận diện các giấy tờ khác không được liệt kê, là giấy tờ có giá: (i) Trị giá được thành tiền; (ii) Được phép giao dịch; (iii) Được pháp luật quy định. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng Nghị định 163 sửa đổi, đã hết hiệu lực. Nghị định 21 năm 2021 của Chính phủ thay thế Nghị định vừa nêu, đã không còn giữ lại quy định này - Khoảng trống pháp lý mà Bộ luật dân sự, đã từng được vá lấp phần nào, đến nay, lại trở về như cũ, vẫn mênh mông là thế.
Khá hài hước – Năm 2011, Tòa án nhân dân tối cao có phát hành “Công văn số 141/TANDTC-KHXX V/v thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”, để hướng dẫn nghiệp vụ cho các Tòa cấp dưới. Trong công văn này có nêu về việc nhận diện các loại giấy tờ có giá, và mặc dù đã viện dẫn hết Luật nọ đến Nghị định kia để lý giải về giấy tờ có giá, nhưng Tòa tối cao đã bỏ quên/bỏ sót quy định trực tiếp và quan trọng nhất về Giấy tờ có giá tại Điều 3.9 Nghị định 163 năm 2006 (Vào thời điểm này vẫn đang có hiệu lực). Và khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, với quy định “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” – Công văn vừa nêu, gần như không còn giá trị vận dụng.
Như vậy, từ những viện dẫn và phân tích nêu trên – Cho thấy rằng, các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá, cũng có nghĩa là tài sản - Thì Bộ luật dân sự không hề quy định. Một số luật chuyên ngành, có đưa ra một vài quy định về Giấy tờ có giá, nhưng như thế là không đủ, dù chỉ một phần nhỏ nhoi. Các văn bản dưới luật, từng có quy định, thì đến nay đã hết hiệu lực, không còn giá trị thi hành. Do đó, các loại “Giấy tờ” nào được xem là Giấy tờ có giá, vẫn là một sự “bỏ quên” của Luật thực định. Trong lĩnh vực nghiên cứu, các Chuyên gia vì “thấy khó bỏ qua”, nên cũng không luận giải, mà ngay cả khi là có đi chăng nữa, thì cũng chỉ để tham khảo mà thôi.
Khoảng trống pháp lý vừa nêu, sẽ đưa lại nhiều hệ lụy không tốt. Chẳng hạn như, rút cuộc thì giấy nhận nợ, vận đơn, giấy nhận hàng, sổ bảo hiểm xã hội, vé vào sân golf…. Có được xem là giấy tờ có giá không, có phải là tài sản hay không? Nếu nó là Giấy tờ có giá, đương nhiên đó là tài sản, và về nguyên tắc đã là tài sản thì được tham gia giao dịch dân sự như trao đổi, mua bán, cầm cố, thế chấp, trừ khi có quy định riêng biệt bởi Luật (Vi phạm điều cấm). Còn nếu nó không phải là tài sản, việc tham gia giao dịch dân sự là không thể, đồng nghĩa giao dịch nếu có sẽ bị tuyên vô hiệu khi có tranh chấp. Như vậy, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của Các Bên, chỉ vì pháp luật không có quy định rõ ràng - Sự không rõ ràng, dẫn đến nhận định chủ quan của Các Bên giao dịch, rằng giấy tờ này là có giá và có thể đem vào giao dịch.
Chính vì thế, việc cần phải có một quy định pháp lý/một định nghĩa pháp lý/một khái niệm pháp lý về Giấy tờ có giá là đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Bộ luật dân sự có đưa ra định nghĩa/khái niệm/tiêu chí xác định đối với tài sản là động sản và bất động sản, tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai, vật chính và vật phụ, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật đặc định và vật cùng loại… Thì không có lý do gì, lại không cho “Giấy tờ có giá” một định danh pháp lý rõ ràng như vậy!
Viết tại Sài Gòn - Luật sư: Đặng Bá Kỹ!