TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại hàng hóa, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư…Trong đó các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa luôn diễn ra sôi động nhất, giữ vị trí trung tâm trong các giao dịch thương mại quốc tế.
Các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hiên nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa có một cách xác định thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ nêu lên một số khái niệm hay một số cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này. Trong khi đó, có thể nói rằng, việc làm rõ khái niệm “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có ý nghĩa pháp lí và thực tiễn hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với việc xác định luật nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (hợp đồng nội địa) thì sẽ được pháp luật trong nước điều chỉnh. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nó sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật thương mại quốc tế: có thể là pháp luật của các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế liên quan và trong nhiều trường hợp liên quan đến cả tập quán thương mại quốc tế, nên cần thiết phải lựa chọn luật nào trong số đó để áp dụng cho hợp đồng. Không những thế mà trong một số trường hợp còn cho phép xác định được pháp luật của quốc gia nào được sử dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Vì vậy hết sức cần thiết phải có một khái niệm chung, rõ ràng về hợp đồng mua bán hàng quốc tế, hay nói cách khác là phải có cách xác định tương đối thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.”[1]
Trước đây, Luật Thương Mại Việt Nam 1997 xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu quốc tịch của thương nhân, khi quy định rằng: hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lí của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch.[2] Tuy nhiên, hiện nay Luật Thương Mại Việt Nam 1997 đã bị thay thế bởi Luật Thương Mại Việt Nam 2005 và quy định trên trong Luật Thương Mại 1997 đã không được nhắc lại. Luật Thương Mại 2005 khác với Luật Thương Mại 1997, không đưa ra khái niệm hay định nghĩa hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chỉ quy định các hình thức mua bán hàng hóa quốc tế, theo đó: mua bán hàng quốc tế được thực hiện dưới các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.[3] Như vậy có thể nói rằng hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một khái niệm hay một định nghĩa về mua bán hàng hóa quốc tế.
Có một số tác giả đã đưa ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Theo đó: “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản hợp đồng thương mại quốc tế (hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài). Tính quốc tế hay đặc điểm có yếu tố nước ngoài của quan hệ chính là điểm khác biệt của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Yếu tố nước ngoài có thể được quy định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia cũng như trong pháp luật quốc tế, nhưng nhìn chung đó là các yếu tố liên quan đến quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của các chủ thể liên quan đến nơi xác lập hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng.”[4] Như vậy theo quan điểm này, thì tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định dựa trên các yếu tố: (i) chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng là các bên có quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở ở các quốc gia khác nhau, (ii) khách thể của hợp đồng (hàng hóa) ở nước ngoài, (iii) căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài. Thực chất, các tác giả trên đây đã đồng nhất khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Thừa nhận rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài nhưng không phải mọi hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài đều là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ví dụ: thương nhân A và thương nhân B đều là thương nhân Việt Nam. Trong một lần đi du lịch tại Xingapo họ đã gặp nhau và kí kết với nhau một hợp đồng mua bán hàng hóa, sau đó việc thực hiện hợp đồng được thực hiện tại Việt Nam, hàng hóa được mua bán cũng tại Việt Nam. Như vậy nếu theo quan điểm trên đây và chỉ dựa vào yếu tố là thương nhân A và thương nhân B kí kết hợp đồng tại Xingapo mà coi đây là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì không thật sự hợp lí.
Khác với quy định của Luật Thương Mại 1997 và Luật Thương Mại 2005 của Việt Nam, pháp luật của nhiều nước cũng như các văn bản pháp lí quốc tế điều chỉnh các loại hợp đồng thương mại quốc tế (trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế dựa trên cơ sở dấu hiệu lãnh thổ hay nói chính xác hơn là địa điểm hoạt động thương mại của thương nhân. Thật vậy, Công ước NewYork 1974 về thời hiệu tố tụng trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước LaHaye 1986 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế được xây dựng trong phạm vi UNCITRAL, Công ước Genevơ 1983 về đại diện trong mua bán quốc tế, các công ước Ottawa năm 1988 về thuê tài chính quốc tế và về bao thanh toán quốc tế chỉ sử dụng một tiêu chí duy nhất là địa điểm trụ sở thương mại của các bên để xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế (trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế). Tất cả các công ước nói trên, quy định rằng hợp đồng thương mại quốc tế là hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau, nếu như các quốc gia này tham gia công ước hay luật của quốc gia tham gia công ước được áp dụng phù hợp với những quy phạm của luật tư pháp quốc tế.
Rõ ràng, việc xây dựng khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên yếu tố lãnh thổ cho phép xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng trở nên đơn giản hơn và thiết thực hơn. Vì vậy, thiết nghĩ định nghĩa cô đọng nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là: “hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.”[5]
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là việc xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn trong trường hợp khi các bên có nhiều trụ sở thương mại. Trong trường hợp này này, giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là hoàn toàn hợp lý. Điều 10 của Công ước quy định: nếu một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh thì sẽ chọn điểm kinh doanh nào có liên hệ gần nhất với hợp đồng và với việc thực hiện hợp đồng, có quan tâm đến những tình huống mà hai bên đã biết hoặc đã nghĩ đến tại thời điểm trước hay ngay khi kí hợp đồng. Nếu một đương sự không có địa điểm kinh doanh thì chọn nơi thường trú của người này làm chuẩn.
Hiện nay, đã có nhiều quốc gia tham gia Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên kí kết hợp đồng. Cuối năm 2015, Việt Nam cũng đã chính thức phê duyệt trở thành thành viên của CISG. Việt Nam bảo lưu các điều khoản về hình thức của hợp đồng tại Điều 11, Điều 29 và Phần II của Công ước. Công ước Viên bắt đầu có hiệu lực ràng buộc tại Việt Nam từ ngày 1/1/2017.
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước hết đó là một hợp đồng, vì vậy nó mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tất cả các loại hợp đồng nói chung. Ngoài ra, do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, tức là có yếu tố nước ngoài tham gia, vì vậy nó sẽ có những điểm khác biệt nhất định so với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (trong nước). Vấn đề đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế rất ít khi được bàn đến trong các tài liệu nghiên cứu. Điều đó không có nghĩa là việc luận giải các đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là không quan trọng, mà ngược lại việc phân tích kĩ vấn đề này sẽ cho phép chúng ta có cái nhìn thật cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện cho việc phân tích những vấn đề khác.
Xuất phát từ những đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, cùng với sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Chúng ta có thể đưa ra các đặc điểm sau đây đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
a. Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Về phương diện pháp lí, các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, kể cả các đạo luật mẫu điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ít khi bàn đến vấn đề chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này được lí giải rằng thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ do pháp luật của quốc gia được áp dụng đối với bên kí kết quy định. Từ đó, dẫn đến một hệ quả là pháp luật của các quốc gia khác nhau sẽ có những quy định không giống nhau về thẩm quyền được kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là các thương nhân. Thương nhân theo nghĩa thông thường được hiểu là những người trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại. Trong luật thương mại, thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quốc gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương mại và trong một số trường hợp cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia). Mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về điều kiện trở thành thương nhân cho từng đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, đối với cá nhân những điều kiện hưởng tư cách thương nhân trong pháp luật thương mại quốc gia thường bao gồm điều kiện nhân thân (độ tuổi, năng lực hành vi, điều kiện tư pháp) và nghề nghiệp.[6]
Một vấn đề khác được đặt ra, chủ thể kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là các thương nhân nhưng có phải các thương nhân được tự do kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà không phụ thuộc ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình, hay là chỉ được kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình. Câu trả lời thật không dễ dàng khi có sự quy định không thống nhất của luật trước đây. Thật vậy, theo quy định tại khoản 1 điều 9 Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005 thì doanh nghiệp có nghĩa vụ kinh doanh theo đúng ngành nghề được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Như vậy nếu theo quy định này thì thương nhân chỉ được phép kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình, điều đó cũng có nghĩa là thương nhân hoạt động trong lĩnh vực “bánh kẹo” không được kí hợp đồng mua bán ‘đồ chơi trẻ em”. Nhưng vấn đề sẽ hoàn toàn khác, khi chúng ta nhìn vào quy định của Luật Thương Mại, thật vậy điều 3 Nghị định 12/2006/NĐ-CP quy định: trừ hàng hóa thuộc danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu thương nhân được xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình. Thiết nghĩ rằng trong trường hợp này thì quy định của Luật Thương Mại là hợp lí hơn vì xuất phát từ bản chất của tự do hóa thương mại cũng như vấn đề tăng trưởng kinh tế, việc mở rộng phạm vi được kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa hoạt động ngoại thương thông qua đó tạo điều kiện phát triển cho nền kinh tế. Còn nếu theo quy định của Luật Doanh Nghiệp thì vô hình chung, chúng ta đã tạo một rào cản cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Có lẽ xuất phát từ thực trạng đó, mà Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2014 hay Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2020, đã bỏ quy định tại khoản 1 điều 9 Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005.
b. Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn các quy định về quy chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo pháp luật của nước bên mua và bên bán. Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định không giống nhau về những hàng hóa được phép trao đổi mua bán, từ đó sẽ dẫn đến việc có những hàng hóa theo quy định của nước này thì được phép trao đổi mua bán nhưng theo quy định của pháp luật nước khác thì lại cấm trao đổi mua bán. Như vậy chỉ những hàng hóa nào đều được pháp luật quốc gia của các bên kí kết hợp đồng quy định là được phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong pháp luật các quốc gia trên thế giới hiện nay, mặc dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông thương mại. Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế chẳng hạn như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản: (i) có thể đưa vào lưu thong, và (ii) có tính chất thương mại. Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại điều 2) chỉ loại trừ (không áp dụng) đối với một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường không, phương tiện vận tải bằng khinh khí cầu…Theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 thì hàng hóa bao gồm: (i) tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; và (ii) những vật gắn liền với đất đai. Như vậy, với khái niệm này thì hàng hóa là đối tượng của mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
c. Thứ ba, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, các bên tham gia giao kết hợp đồng có quyền tự do lựa chọn hình thức thể hiện ý chí thích hợp. Điều này cũng có nghĩa là về nguyên tắc, ý chí không nhất thiết phải được bày tỏ dưới một hình thức nhất định, nó có thể biểu lộ bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi, cử chỉ cụ thể hoặc thậm chí là sự im lặng. Tuy nhiên, để thiết lập sự an toàn pháp lí trong quan hệ hợp đồng cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những trường hợp hợp đồng giao kết phải tuân theo những hình thức pháp luật quy định, nếu không các bên tham gia giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Như vậy hình thức hợp đồng được hiểu không chỉ là phương thức ghi nhận sự biểu lộ ý chí dưới dạng lời nói, văn bản, hành vi, cử chỉ cụ thể mà còn là những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ trong một số trường hợp nhất định.[7]
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được quy định rất khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có pháp luật của một số nước yêu cầu bắt buộc hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, nhưng pháp luật của một số nước khác lại không có bất kì một yêu cầu nào về hình thức hợp đồng. Mặt khác, ngay cả khái niệm “văn bản” giữa các quốc gia cũng có các quan niệm rộng hẹp khác nhau về những dạng vật chất nhất định chứa đựng thông tin nào được coi là văn bản.
Trong các văn bản pháp lí quốc tế, rất ít khi quy định về điều kiện hình thức của hợp đồng. Thật vậy, theo quy định của Công ước Viên 1980 thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được thể hiện dưới bất kì hình thức nào cũng được coi là hợp pháp. Điều 11 Công ước quy định: hợp đồng mua bán không cần phải được kí kết hoặc xác lập bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng. Vấn đề này cũng được quy định tương tự trong Bộ nguyên tắc của UNIDROIT 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế. Theo quy định tại điều 1.2 của Bộ nguyên tắc thì: không một chi tiết nào của Bộ nguyên tắc yêu cầu một hợp đồng phải được kí kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự thỏa thuận bằng văn bản. Sự tồn tại của một hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kì hình thức nào kể cả bằng nhân chứng. Tuy nhiên để giảm bớt sự “tùy nghi” của điều 11 Công ước Viên 1980 và có tính đến quy định trong pháp luật quốc gia của một số nước thành viên yêu cầu hình thức của hợp đồng phải là văn bản, tại điều 12 Công ước quy định: nước thành viên của công ước có pháp luật quốc gia yêu cầu hợp đồng phải có hình thức bằng văn bản có thể tuyên bố bảo lưu vấn đề này bất cứ lúc nào. Và điều 96 của Công ước cũng quy định nếu luật của một quốc gia thành viên nào đó quy định hợp đồng phải được kí kết dưới hình thức văn bản mới có giá trị thì quy định này phải được tôn trọng, kể cả trong trường hợp chỉ cần một trong các bên có trụ sở thương mại tại quốc gia có luật quy định hợp đồng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Theo quy định tại điều 27 Luật Thương Mại Việt Nam 2005 thì: mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương.
Như vậy, mặc dù trong các văn bản pháp lí quốc tế cũng như trong quy định pháp luật của một số quốc gia không yêu cầu hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, tuy nhiên, xuất phát từ sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, từ sự quy định khác nhau trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, từ sự bất đồng ngôn ngữ giữa các bên tham gia kí kết hợp đồng và hàng loạt các vấn đề khác, cho nên tốt hơn hết các bên khi tham gia kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nên thiết lập bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương, vì như vậy các bên sẽ tránh được tối đa các hậu quả pháp lí bất lợi, những rủi ro và tranh chấp không đáng có cũng như các thiệt hại có thể xảy ra.
d. Thứ tư, luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Việc trụ sở thương mại của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau không chỉ có nghĩa các bên nằm trên lãnh thổ của các nước khác nhau mà còn có nghĩa là các bên liên quan đến các hệ thống pháp luật khác nhau.[8] Xuất phát từ chủ quyền quốc gia trong công pháp quốc tế, khi một quan hệ (dân sự có yếu tố nước ngoài) liên quan đến bao nhiêu quốc gia thì về nguyên tắc có bấy nhiêu hệ thống pháp luật đều có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Trong khi đó mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Từ đó dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật. Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi pháp luật của các quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế, hoặc/và các đạo luật mẫu về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên điều cần nhấn mạnh ở đây là mỗi quan hệ thì chỉ có thể áp dụng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh mà thôi. Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật để áp dụng điều chỉnh quan hệ đó.
Xuất phát từ quyền tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng, các bên kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh hợp đồng của mình. Tất nhiên việc chọn luật phải thỏa mãn các điều kiện chọn luật, và trong một số trường hợp quyền chọn luật bị hạn chế bởi quy định của pháp luật quốc gia khi nó liên quan đến các vấn đề chẳng hạn như bảo lưu trật tự công cộng…Trong trường hợp các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì các quy tắc của tư pháp quốc tế được áp dụng để chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng khi cần thiết.
3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thể hiện thỏa thuận biểu hiện ý chí tự nguyện của các chủ thể, nhằm ấn định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên đối với nhau được ghi nhận tại các điều khoản trong hợp đồng mà các bên kí kết. Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào do các bên thỏa thuận đưa vào hợp đồng cũng được coi là hợp pháp. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ hợp pháp về mặt nội dung khi nó chứa đựng những những điều khoản phù hợp với quy định của pháp luật.
3.1 Một số điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trên cơ sở các điều khoản mà các bên tham gia kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thỏa thuận trong hợp đồng sẽ cho phép xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tuy nhiên trong các quy định pháp lí quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia (trong đó có Việt Nam) không hề có quy định nào ràng buộc các điều khoản tối thiểu phải có trong hợp đồng. Trước đây, theo quy định của Luật Thương Mại Việt Nam năm 1997 tại điều 50 và điều 81 thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải có các điều khoản về: (i) tên hàng; (ii) số lượng; (iii) quy cách chất lượng; (iv) giá cả; (v) phương thức thanh toán; và (vi) địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Tuy nhiên, như đã đề cập, hiện nay Luật Thương Mại 1997 đã được thay thế bởi Luật Thương Mại 2005 và theo quy định của Luật Thương Mại 2005 thì không hề bắt buộc các điều khoản tối thiểu phải có trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trong các văn bản pháp lí quốc tế cũng vậy, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không hề có quy định nào về các điều khoản tối thiểu của hợp đồng. Mặc dù theo quy định tại điều 14 của Công ước Viên 1980 (điều khoản về chào hàng) khiến chúng ta có thể ngầm hiểu các điều khoản cơ bản phải có trong hợp đồng là: (i) tên hàng; (ii) số lượng, và (iii) giá cả.
Mặc dù pháp luật không quy định, tuy nhiên từ thực tiễn kí kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và cũng để tránh các tranh chấp có thể phát sinh, thiết nghĩ rằng, khi các bên kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần thiết phải thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng các điều khoản cơ bản và quan trọng, vì đó chính là cơ sở pháp lí để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên. Các điều khoản đó bao gồm nhưng không chỉ bao gồm:
- Một là, về đối tượng của hợp đồng: đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hàng hóa. Trong hợp đồng hàng hóa phải được ghi cụ thể, chính xác tên thường gọi đối với hàng hóa đó, có kèm theo tên thương mại hoặc tên khoa học (nếu có) và đặc biệt cần phải quy định rõ về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa. Bởi vì có thể cùng một loại hàng hóa nhưng nếu có nguồn gốc xuất xứ từ những nơi không giống nhau thì điều chắc chắn đó là phẩm chất của hàng hóa sẽ khác nhau.
- Hai là, về số lượng hoặc khối lượng của hàng hóa: đây là điều khoản quan trọng vì nó sẽ liên quan đến vấn đề giao thừa hoặc thiếu hàng. Từ thực tiễn, các bên cần ghi rõ số lượng hàng hóa được mua bán, tuy nhiên các bên không nên ghi rõ số lượng bằng một con số cố định cụ thể. Mà nên thỏa thuận theo phương pháp dung sai. Có nghĩa là số lượng hàng hóa có thể giảm (-) hoặc tăng (+) theo một tỉ lệ phần trăm (%) nhất định.
- Ba là, về phẩm chất hàng hóa: việc xác định phẩm chất hàng hóa phải được quy định cụ thể thông qua việc mô tả theo hình dạng, màu sắc, kích thước, hoặc xác định bởi đặc tính lí hóa của nó, hoặc theo theo một tiêu chuẩn nhất định, hoặc theo một mẫu nhất định đối với hàng hóa đó. Đây là một điều hết sức quan trọng vì cùng một loại hàng hóa nhưng nếu theo tiêu chuẩn ở khu vực này thì đáp ứng yêu cầu nhưng ở khu vực khác thì lại không đáp ứng. Chính vì vậy các bên cần phải thỏa thuận rõ chất lượng của hàng hóa sẽ được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn nào, nhằm tránh những hiểu lầm tai hại.
Nguyên đơn (người bán Thụy Sĩ) và bị đơn (người mua Hà Lan) đã kí kế bat hợp đồng bán cùng loại hàng hóa với quy cách phẩm chất đã được quy định chi tiết. Hàng được gửi đi từ một công ty Canada theo điều kiện CIF cảng Rotterdam. Cả ba hợp đồng đều được lập bằng tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt nhau ngoại trừ điều khoản về số lượng. Tuy nhiên chỉ có hai hợp đồng đầu tiên được kí và thực hiện, hợp đồng thứ ba vẫn chưa được kí và trước khi hàng được gửi đi từ Canada, bị đơn đã hủy hợp đồng với lí do hàng được giao theo hai hợp đồng đầu không đúng quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng; nhà máy ở Canada đã gửi một kĩ sư sang Hà lan để kiểm tra mẫu hàng trong một phòng thí nghiệm độc lập. Kết quả kiểm tra gây ra nhiều tranh cãi: khi tiến hành phân tích theo phương pháp mới của Bắc Mỹ thì mẫu hàng được kiểm tra hoàn toàn phù hợp với những quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, nhưng khi tiến hành theo phương pháp của Châu Âu thì lại không phù hợp. Theo kết luận chính của kĩ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi không phải là hàng mà người mua Hà Lan nghĩ rằng mình đã mua. Đó là do khi chào hàng người bán Thụy Sĩ đã không hề đề cập đến phương pháp phân tích phẩm chất, còn người mua Hà Lan lại cho rằng hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được áp dụng.[9]
Rõ ràng việc đánh giá chất lượng của hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không là không hề đơn giản khi các bên không thỏa thuận quy định về phương pháp đánh giá chất lượng của hàng hóa. Sự thiếu cận trọng của các bên, chính xác hơn là mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp thông tin và nghĩa vụ phải tự hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn dề cơ bản của tranh chấp trên. Và suy cho cùng đó là do sự không rõ ràng trong các điều khoản quy định của hợp đồng.
- Bốn là, về điều khoản giá cả hàng hóa: giá cả là một điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nên các bên cần phải thỏa thuận và quy định cụ thể. Đặc biệt nếu hợp đồng được thực hiện trong một thời gian dài, thì các bên nên có thỏa thuận quy định vấn đề về biến động giá cả, theo đó các bên có thể tiến hành đàm phán lại giá cả trong trường hợp sự biến động giá cả có thể gây thiệt hại cho một trong các bên. Đây là một quy định cần thiết nhằm hạn chế những tổn thất lớn cho các bên khi có sự biến động về giá cả.
Ngày 20 tháng 8 năm 1987, nguyên đơn (người mua Ai Cập) và bị đơn (người bán Nam Tư) đã kí kết hợp đồng mua bán 80 ngàn tấn thép thanh với giá trung bình là 190 USD/tấn. Hàng được giao theo hợp đồng trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 12 năm 1987 đến ngày 15 tháng 12 năm 1988 tại cảng Nam Tư. Nguyên đơn có “quyền mua đặc biệt”, quyền này cho phép nguyên đơn tăng số lượng hàng mua đến 160.000 tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15 tháng 12 năm 1987 và mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 26 tháng 11 năm 1987; nguyên đơn đã thông báo cho bị đơn rằng họ sẽ thực hiện “quyền mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoảng từ 15 đến 31 tháng 12 năm 1987.
Do việc tăng giá thép trên thị trường thế giới, ngày 9 tháng 12 năm 1987 bị đơn đề nghị tổ chức một cuộc họp vào tháng đó để thảo luận về mức giá áp dụng cho số lượng hàng mua thêm. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 12 năm 1987 bị đơn đề nghị mức giá 215 USD/tấn cho số lượng hàng bổ sung nhưng nguyên đơn không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thỏa thuận. Trong văn thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1987 nguyên đơn nhấn mạnh rằng bị đơn đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đền ngày 6 tháng 1 năm 1988 bị đơn vẫn không chấp thuận thì nguyên đơn sẽ buộc bị đơn phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã nguyên đơn kéo dài tới 25 tháng 1 năm 1988.
Ngày 25 tháng 1 năm 1988 nguyên đơn đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216 USD/tấn. Nguyên đơn cho rằng chi phí vận chuyển đường biển từ Rumani đến Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ Nam Phi đến Ai Cập. Sau đó nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng ra trọng tài phòng thương mại quốc tế (tại Paris – Pháp) đòi bị đơn bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá. Kết quả tòa trọng tài đã ra phán quyết chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.[10]
- Năm là, về thời hạn giao hàng: để đảm bảo quyền lợi của mình và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao nhận hàng các bên cần phải thỏa thuận cụ thể về thời gian giao hàng. Thời gian giao hàng có thể được các bên ấn định vào một thời điểm cụ thể hoặc vào một thời gian cụ thể. Tuy nhiên nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về giao hàng nhiều lần thì các bên nên quy định cụ thể về từng lần giao hàng, nhằm tránh trường hợp không thực hiện việc giao hàng nhưng không thể ràng buộc nghĩa vụ vì không đủ cơ sở pháp lí. Ví dụ: trong hợp đồng mua bán mỡ bôi trơn (hợp đồng số 01292) được kí kết giữa thương nhân Việt Nam (bên mua) và thương nhân Xingapo (bên bán) có thỏa thuận về điều khoản giao hàng là: nghĩa vụ giao hàng của bên bán sẽ chia làm nhiều lần và sẽ được hai bên đồng ý sau.[11] Đây thực sự là một quy định không có lợi cho người mua, bởi vì đây là một quy định không rõ ràng về thời điểm và thời hạn giao hàng. Việc quy định như vậy có thể tạo điều kiện cho người bán có thể lợi dụng đề trốn tránh nghĩa vụ giao hàng, khi việc trốn tránh đó có lợi cho họ. Bản thân việc các bên lựa chọn sẽ tiến hành giao hàng nhiều lần thì không có gì đáng nói vì có thể như vậy đều phù hợp với điều kiện của hai bên. Tuy nhiên điều đáng ngại là các bên không hề thỏa thuận cụ thể rằng việc giao hàng sẽ được chia bao nhiêu lần, mỗi lần cách nhau bao nhiêu lâu và tổng thời gian (thời hạn) để hoàn tất việc giao hàng. Ví dụ: các bên có thể thỏa thuận việc giao hàng sẽ được chia làm 6 lần, mỗi lần cách nhau 15 ngày, thời hạn để hoàn tất toàn bộ việc giao hàng là trong vòng ba tháng kể từ ngày được xác định nào đó. Tuy nhiên trong hợp đồng số 01292 các bên lại không quy định cụ thể như vậy, do đó không thể ràng buộc được nhau, đặc biệt là người mua không thể buộc người bán giao hàng cho mình vì sẽ không có căn cứ và thời hạn giao hàng cụ thể.
- Sáu là, về phương thức giao hàng: Đây là một điều khoản cực kì quan trọng vì nó liên quan đến các vấn đề như: thuê phương tiện vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa, đặc biệt liên quan đến việc xác định thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu và rủi ro đối với hàng hóa từ người bán sang người mua. Trong thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế khi thỏa thuận về phương thức giao hàng các bên thường sử dụng các điều kiện giao hàng được quy định trong tập quán thương mại INCOTERMS. “Thông thường, điều kiện giao hàng phụ thuộc phần lớn vào khả năng của người bán. Đối với những người có khả năng tài chính dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trên thương trường thì giao hàng với điều kiện CIF và mua hàng với điều kiện FOB, với thương nhân Việt Nam và ngược lại, mua CIF, bán FOB.”[12] Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở đây là để tránh lầm lẫn khi thỏa thuận về phương thức giao hàng các bên phải thống nhất chỉ ra sẽ áp dụng phương thức nào và nó được ghi nhận ở đâu.
- Bảy là, điều khoản về thanh toán: có thể nói thanh toán là nghĩa vụ cơ bản và quan trọng nhất của bên mua. Ngược lại đó là quyền lợi quan trọng nhất của bên bán. Cho nên các vấn đề liên quan đến điều khoản thanh toán bao gồm: phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán và địa điểm thanh toán cần được các bên thỏa thuận cụ thể. Trong thực tiễn thương mại quốc tế thì có nhiều phương thức thanh toán được các bên sử dụng, trong đó có hai phương thức thanh toán được các bên thường hay sử dụng là phương thức nhờ thu (collection of payment) và phương thức tín dụng chứng từ (letter of credits) mà phổ biến nhất là phương thức tín dụng chứng từ (L/C). Phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ có hai loại: đó là tín dụng không được hủy ngang và tín dụng được hủy ngang. Phương thức tín dụng được hủy ngang ít khi được sử dụng vì độ rủi ro cao của nó. Trong phương thức thanh toán bằng tín dụng không hủy ngang có hai loại là: (i) tín dụng không hủy ngang không xác nhận. Đối với loại tín dụng này thì ngân hàng đại diện chỉ thông báo việc mở tín dụng cho người thụ hưởng, được gọi là ngân hàng thông báo (the informing bank), theo đó họ không chịu bất kì trách nhiệm gì và chỉ hành động theo lệnh của ngân hàng phát hành (the isuing bank). Như thế ngân hàng đại diện không bắt buộc phải thanh toán khi người thụ hưởng xuất trình các chứng từ hàng hóa. Người thụ hưởng chỉ tin cậy vào cam kết của ngân hàng phát lệnh. Do đó tín dụng không hủy ngang không được xác nhận chỉ được xem là một phương thức thanh toán thích hợp khi những rủi ro về chính trị, kinh tế không đáng kể; (ii) tín dụng không hủy ngang được xác nhận (confitmed ircocable credit) theo loại này chính ngân hàng đại diện sẽ cam kết thanh toán, gọi là ngân hàng xác nhận (the cofirming bank). Do đó bên bán có thể xuất trình các tài liệu liệt kê trong tín dụng thư cho ngân hàng cơ sở của họ, ngân hàng này phải chi trả nếu các tài liệu phù hợp với tín dụng thư và được xuất trình trong thời hạn quy định. Như thế quyền và nghĩa vụ của bên xuất khẩu (bên bán) sẽ được bảo đảm nhiều hơn, nhất là nếu ngân hàng xác nhận lại chính là ngân hàng của họ. Đây là vấn đề các bên cần lưu ý, nhằm tránh những nhầm lẫn không đáng có.
Tranh chấp trong hợp đồng mua bán có quy định thư tín dụng không hủy ngang. Nguyên đơn (công ty Tây Ban Nha) với tư cách là bên nhận ủy thác cho một công ty Tây Ban Nha khác, đã bán một lô sản phẩm lương thực cho một công ty Cô-oét. Ngày 1/7/1978 công ty Cô-oét đã mở tại ngân hàng của mình một thư tín dụng không hủy ngang và chuyển nhượng được, trị giá 76.244 Đô la Mỹ cho công ty ủy thác Tây Ban Nha thụ hưởng qua một ngân hàng Tây Ban Nha khác.
Hàng sẽ được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau 20 ngày, muộn nhất là vào ngày 20/9/1978. Tiền hàng cũng được thanh toán làm hai lần. Hàng giao theo giá C&F và áp dụng quy tắc và thực hiện thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC (bản sửa đổi năm 1974).
Có hai điều kiện quy định cho thư tín dụng, thứ nhất ngân hàng Tây Ban Nha sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển hoàn hảo đã xếp hàng; thứ hai ngân hàng Tây Ban Nha phải đợi giấy phép do ngân hàng Cô-oét (bị đơn) cấp. Giấy phép này sẽ được cấp khi có thông báo của công ty Cô-oét (người mua) rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Cô-oét tại cảng chấp nhận. Ngày 30/9/1978 ngân hàng Cô-oét đã sửa đổi điều kiện hai thành: ngân hàng sẽ được cấp phép trong vòng 75 ngày kể từ ngày nhận được vận đơn đường biển “với điều kiện là hàng hóa đã được nhận bởi người mở thư tín dụng và được cơ quan y tế của chính phủ Cô-oét chấp nhận”, mà không có ý kiến chấp thuận của người được hưởng lợi (nguyên đơn).
Ngày 25/11/1978, ngân hàng Tây Ban Nha đã gửi bộ chứng từ của chuyến hàng thứ hai cho bị đơn (ngân hàng Cô-oét) và đã bị bị đơn từ chối với lí do thời gian giữa hai chuyến hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Tây Ban Nha không chấp nhận điều này.
Do vậy ngân hàng Cô-oét đã thuyết phục người mua Cô-oét chấp nhận điều không đúng nguyên tắc trên, nhưng đồng thời công ty Cô-oét vẫn đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ y tế Cô-oét, cơ quan mà công ty Cô-oét nộp đơn xin kiểm tra hàng.
Hai ngày sau, ngày 13/2/1979, bị đơn thông báo rằng người mua Cô-oét đã từ chối hàng vì cơ quan y tế tại cảng đã cấp một giấy chứng nhận rằng hàng sẽ hết hàng sử dụng trong hai tháng nữa.
Ngân hàng Tây Ban Nha cho rằng giấy chứng nhận của y tế đã không bác bỏ hàng. Bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và lập luận rằng lô hàng vẫn chưa được nhận được bởi người mua (công ty Cô-oét) và điều này được khẳng định sau đó bằng tuyên bố “theo thộng lệ, hàng thực phẩm phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong vòng 12 tháng”.
Trong đơn kiện gửi trọng tài nguyên đơn đã tuyên bố rằng việc bị đơn từ chối bộ chứng từ là không hợp pháp và yêu cầu được thanh toán khoản tiền 38.122 Đô la Mỹ lãi suất hàng năm 13% tính từ ngày 5/1/1979.
Về các vấn đề trên, trước hết ủy ban trọng tài cho rằng lý do duy nhất mà hàng chưa thuộc quyền sở hữu của người mua Cô-oét, người mở thư tín dụng là do họ đã từ chối lô hàng đó khi hàng đã đến nơi và giấy chứng nhận y tế cũng đã được cấp.Vấn đề cần giải quyết là trong tình huống này liệu điều kiện “hàng hóa đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” đã được thỏa mãn hay chưa.
Ủy ban trọng tài đã định nghĩa bản chất của thư tín dụng không hủy ngang như sau:
Một thư tín dụng không thể hủy ngang là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng mở thư tín dụng rằng ngân hàng sẽ thanh toán nếu các điều kiện của thư tín dụng được thỏa mãn, nếu thư tín dụng đó dùng để thanh toán (điều 3 quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ). Bản chất của tín dụng không hủy ngang là người hưởng lợi chắc chắn sẽ được thanh toán nếu xuất trình đúng bộ chứng từ.
Một đặc tính cơ bản của tính dụng chứng từ là tính hình thức của nó. Các chứng từ được xuất trình chỉ có thể là đúng hoặc không đúng, sự mập mờ ở đây không được chấp nhận. Một tín dụng chứng từ không được hiểu theo bất cứ luật quốc gia nào mà các bên không có thỏa thuận mà phải được hiểu theo thông lệ được áp dụng cho đối tượng này trong thương mại quốc tế.
Một đặc tính nữa của thư tín dụng là việc thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các bên, chỉ cần các điều kiện trong thư tín dụng được thỏa mãn và người hưởng lợi xuất trình đúng bộ chứng từ thì việc thanh toán sẽ được thực hiện.
Bị đơn lập luận rằng trong trường hợp này, hàng giao không được người mở thư tín dụng chấp nhận, điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng”đã không được thỏa mãn. Rõ ràng nếu hiểu như bị đơn thì việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở tín dụng. Việc hiểu điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ, theo đó việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý của người mở thư tín dụng, và điều đó có nghĩa là tín dụng chứng từ không hề an toàn cho người hưởng lợi.
Bởi vậy, ủy ban trọng tài cho rằng điều kiện “hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng” cũng cần được hiểu ở nghĩa là người mở thư tín dụng đã có thể nhận được hàng nếu anh ta muốn (vì trên thực tế hàng đã đến nơi và người mua đã có đủ các điều kiện để nhận hàng). Như thế, điều kiện này mới có ý nghĩa và chấp nhận được trong thương mại quốc tế. Như vậy rõ ràng bị đơn đã sai khi từ chối thanh toán cho nguyên đơn. Bởi vậy ủy ban trọng tài quyết định nguyên đơn được hưởng số tiền là 38.122 USD.
Sau khi đưa ra phán quyết về khiếu nại chính, ủy ban trọng tai xét đến mức lãi suất hàng năm 13 % tính từ tháng 2/1979.
Nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất 13 %/ năm tính từ 1/12/ 1979, bị đơn không phản đối yêu cầu này vì việc thanh toán đã không thực hiện vào ngày đã định và mức lãi suất mà nguyên đơn yêu cầu trong thời gian nêu trên cũng không có gì là vô lí trong thương mại quốc tế. Vì thế ủy ban trọng tài đã đồng ý với mức lãi suất nói trên.[13]
- Tám là, điều khoản về trách nhiệm hợp đồng: Trong thực tiễn thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không phải lúc nào các bên cũng thực hiện hoặc/và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Điều đó cũng có nghĩa là các bên có thể vi phạm nghĩa vụ của mình. Chính vì vậy việc quy định trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng không những có tác dụng răn đe các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình mà còn có tác dụng bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Ngược lại, có những trường hợp việc không thực hiện được nghĩa vụ là do những sự cố khách quan, trong những trường hợp này nếu buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm là không công bằng. Chính vì vậy loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm trong những trường hợp đó là cần thiết. Vì lẽ đó các bên khi kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nên thỏa thuận quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm.
- Chín là, điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng: Như những phần trước đã phân tích, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế hoặc/và bởi các đạo luật mẫu. Về mặt nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận lựa chọn thì các quy tắc của tư pháp quốc tế được áp dụng để chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng khi cần thiết. Điều này sẽ dẫn tới hệ quả có thể luật được áp dụng là luật mà một trong các bên hoặc các bên chưa biết hoặc chưa nắm kĩ, như vậy nếu cuộc chiến pháp lí xảy ra bất lợi là đã rõ. Hơn nữa cùng một nội dung hợp đồng nhưng nếu áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau để điều chỉnh thì sẽ cho ra những hệ quả không giống nhau. Do vậy đề tránh những tranh chấp không đáng có, tốt hơn hết và an toàn hơn hết là khi các bên kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần thỏa thuận chọn hệ thống pháp luật mà mình đã biết rõ về nó.
- Mười là, điều khoản về giải quyết tranh chấp: Trong quan hệ thương mại quốc tế do nhiều nguyên nhân khác nhau như sự khác biệt về pháp luật, ngôn ngữ, tập quán…và nhất là sự thay đổi về điều kiện thực hiện hợp đồng nên các tranh chấp phát sinh giữa các bên liên quan nhiều khi là điều khó tránh khỏi. Khi phải đương đầu với các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng thương mại quốc tế các bên luôn mong muốn làm thế nào để giải quyết các tranh chấp đó một cách nhanh chóng, suôn sẻ, đạt được hiệu quả cao nhất mà vẫn giữ được uy tín và bí mật kinh doanh[14]. Muốn đạt được điều đó khi các bên kí kết hợp đồng cần nghiên cứu và thỏa thuận trước về cơ chế giải quyết tranh chấp như là thủ tục giải quyết tranh chấp, phương pháp giải quyết tranh chấp và cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế thì các bên thường thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và thủ tục tố tụng trọng tài.
Tóm lại, có thể nói rằng, trong thực tiễn kinh doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và kí hợp đồng, không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để kí kết một hợp đồng hoặc thực hiện một thương vụ, các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỉ thuật…) qua Telex, Fax, thư tín, hoặc thậm chí có trường hợp không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẽ thì không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó lường. Chính vì vậy trước khi tiến hành kí kết bất kì hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt chẻ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, phụ lục kèm theo như tài liệu kĩ thuật hay miêu tả về hàng hóa…phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần được làm sáng tỏ ngay để tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như chúng ta đã thấy qua một vài ví dụ nêu trên.[15]
3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Mục đích của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng là nhằm đạt đến những lợi ích nhất định. Tuy nhiên điều thú vị là mục đích của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng có đạt được hay không, lợi ích mà các bên hướng tới có đạt được hay không, không phụ thuộc vào ý chí của các bên mà hoàn toàn phụ thuộc vào bên có nghĩa vụ có thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ hay không. Như vậy, suy cho cùng vấn đề mà chúng ta quan tâm nhiều nhất trong quan hệ hợp đồng chính là vấn đề thực hiện nghĩa vụ, tất cả những vấn đề khác liên quan đến hợp đồng cũng chủ yếu là vấn đề nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ, và tất nhiên ngay cả vấn đề trách nhiệm và căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà chúng ta sẽ bàn đến sau này cũng chủ yếu liên quan đến vấn đề thực hiện nghĩa vụ, xuất phát từ nghĩa vụ. Cho nên có thể nói rằng bản chất của mọi quan hệ hợp đồng là tạo lập nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ, bắt đầu bằng nghĩa vụ và kết thúc cùng với sự hoàn thành nghĩa vụ, và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng không phải là ngoại lệ. Các hệ thống pháp luật khác nhau có những quy định cụ thể khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng nhìn chung đều nhằm đến với việc thực hiện hợp đồng của các bên.
3.2.1 Nghĩa vụ của bên bán
Theo quy định của Công ước Viên 1980, thì trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bên bán có hai nghĩa vụ cơ bản: (i) nghĩa vụ giao hàng; (ii) chuyển giao các giấy tờ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước (điều 30).
a. Nghĩa vụ giao hàng
Giao hàng đúng địa điểm:
Theo quy định tại điều 31 của Công ước Viên 1980 thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì: (i) bên bán phải giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên, nếu hợp đồng có liên quan đến sự vận chuyển; (ii) trường hợp khác thì người bán có nghĩa vụ đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi sản xuất hàng hóa hoặc tại trụ sở thương mại của người bán tùy vào từng trường hợp cụ thể, vấn đề này cũng được quy định tương tự trong Bộ nguyên tăc UNIDROIT 2004. Theo quy định tại điều 6.1.6 của Bộ nguyên tắc thì: nếu địa điểm thực hiện nghĩa vụ không được quy định trong hợp đồng hoặc không thể xác định được căn cứ vào hợp đồng thì nghĩa vụ phải được thực hiện: (i) tại trụ sở của bên có quyền, nếu là nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền; (ii) tại trụ sở của bên có nghĩa vụ nếu là nghĩa vụ khác. Tuy nhiên điều khác biệt giữa Bộ nguyên tắc UNIDROIT và Công ước Viên 1980 là Bộ nguyên tắc đã không dự liệu đến trường hợp giao hàng có người vận chuyển.
Giao hàng đúng thời hạn:
Theo quy định tại điều 33 Công ước Viên 1980 thì người bán phải giao hàng đúng thời gian đã quy định trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng thì người bán có nghĩa vụ giao hàng trong một thời gian hợp lí sau khi hợp đồng được kí kết. Về việc giao hàng đúng thời hạn Bộ nguyên tắc UNIDROIT tại điều 6.1.1 cũng có quy định tương tự. Tuy nhiên có một điểm khác biệt cơ bản giữa hai văn bản pháp lí này về thời hạn giao hàng mà chúng ta cần chú ý đó là: theo quy định của Công ước Viên 1980 (điều 33) thì bên bán phải giao hàng trong khoảng thời gian được hợp đồng ấn định hoặc có thể xác định từ hợp đồng vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn đó, trừ phi tình huống cho thấy bên bán (nghĩa là chính bên có nghĩa vụ) phải chọn một ngày khác. Trong khi đó theo quy định tại điều 6.1.1 Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 thì: bên có nghĩa vụ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình vào một thời điểm bất kì trong một khoảng thời gian xác định, nếu khoảng thời gian đó được ấn định trong hợp đồng hoặc có thể xác định được căn cứ vào hợp đồng, trừ trường hợp do hoàn cảnh mà việc lựa chọn thời điểm thực hiện hợp đồng do bên kia (nghĩa là bên có quyền) quyết định. Như vậy, cùng một hoàn cảnh, nhưng theo quy định của Công ước Viên thì bên bán (bên có nghĩa vụ) sẽ là bên có quyền thay đổi thời điểm thực hiện hợp đồng (thời điểm giao hàng); trong khi đó theo quy định của Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 thì bên mua (bên có quyền) mới là bên có quyền thay đổi thời điểm thực hiện hợp đồng (thời điểm giao hàng).
Giao hàng đúng số lượng và chất lượng:
Điều 35 Công ước Viên 1980 quy định: bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng và chất lượng mà các bên đã quy định trong hợp đồng, đồng thời phải được đóng trong bao bì thích hợp như hợp dồng đã quy định, và phải đảm bảo chất lượng hàng hóa, nếu hợp đồng không quy định cụ thể thì hàng hóa được coi là không đúng quy cách phẩm chất khi: hàng không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại thường đáp ứng, hoặc hàng không phù hợp với bất kì mục đích nào mà người bán đã cho người mua biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào lúc kí hợp đồng; hoặc hàng không phù hợp với hàng mẫu (trong trường hợp bán hàng theo mẫu) mà bên bán đã cung cấp cho bên mua, hoặc hàng không được đóng trong bao bì theo cách thông thường cho những mặt hàng cùng loại đề bảo vệ hàng đó.
b. Nghĩa vụ chuyển giao các giấy tờ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa
Theo quy định tại điều 34 Công ước Viên 1980 thì bên bán có nghĩa vụ giao giấy tờ liên quan đến hàng hóa cho người mua đúng thời gian và thời điểm đã quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên bên bán có thể giao giấy tờ liên quan đến hàng hóa trước thời gian quy định nếu việc giao giấy tờ đó không bất tiện hoặc chi phí cho người mua; trong trường hợp người bán giao giấy tờ cho người mua đã gây thiệt hại cho người mua thì người bán phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ngoài các nghĩa vụ cơ bản trên đây thì bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu cho người mua đối với hàng hóa đã bán đề người mua không bị bên thứ ba tranh chấp, cũng như bảo đảm hàng không bị ràng buộc bởi bất kì quyền hạn nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.
3.2.2 Nghĩa vụ của bên mua
Theo quy định điều 53 Công ước Viên 1980 thì bên mua có hai nghĩa vụ cơ bản: (i) chi trả tiền hàng; (ii) nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của công ước.
a. Nghĩa vụ nhận hàng
Theo quy định tại điều 50 Công ước Viên 1980 thì nghĩa vụ nhận hàng của bên mua được thể hiện ở hai hành vi, đó là: sẵn sàng tiếp nhận hàng và tiếp nhận hàng.
Để thực hiện việc sẵn sàng tiếp nhận hàng, người mua phải tiến hành chuẩn bị mọi cơ sở vật chất như phương tiện bốc dỡ, kho bãi…nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc nhận hàng. Việc người mua phải thực hiện hành vi sẵn sàng tiếp nhận hàng không những thể hiện sự tận tâm mẫn cán của người mua đối với nghĩa vụ của mình mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho người bán thực hiện việc giao hàng của mình. Khi bên bán đưa hàng đến địa điểm quy định và đặt hàng dưới sự định đoạt của người mua thì người mua phải thực hiện nghĩa vụ của mình là tiếp nhận hang.[16]
b. Nghĩa vụ thanh toán
Nghĩa vụ thanh toán theo đúng giá cả của hàng hóa:
Theo quy định tại điều 55 Công ước Viên 1980 thì: người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho người bán theo giá cả mà các bên đã thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể về giá của hàng hóa thì giá của hàng hóa sẽ được xác định bằng cách suy đoán rằng các bên đã dựa vào giá đã được ấn định cho mặt hàng như vậy khi nó được đem bán trong những điều kiện tương tự của ngành thương mại tương tự. Vấn đề cũng được quy định tương tự tại điều 5.1.7 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 theo đó: khi hợp đồng không ấn định giá hoặc không đưa ra phương thức xác định giá, các bên trong hợp đồng được coi như (trừ chỉ dẫn ngược lại) đã hướng tới mức giá thông thường được áp dụng vào thời điểm giao kết hợp đồng tại cùng ngành hàng, cho cùng công việc thực hiện trong hoàn cảnh tương tự, hoặc nếu không có mức giá này thì hướng tới mức giá hợp lí. Tuy nhiên Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 thực sự đã đi xa hơn Công ước Viên 1980 khi quy định rằng: khi mức giá do một bên ấn định rõ ràng là phi lí thì một mức giá hợp lí sẽ thay thế dù cho hợp đồng có quy định ngược lại.
Nghĩa vụ thanh toán đúng địa điểm quy định:
Theo quy định tại điều 57 Công ước Viên 1980 thì người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng theo đúng địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định cụ thể về địa điểm thanh toán thì người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho người bán tại trụ sở của người bán hoặc tại nơi giao hàng, hoặc tại nơi giao chứng từ nếu việc trả tiền phải được làm cùng lúc với việc giao hàng hoặc giao chứng từ.
Nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn:
Theo quy định tại điều 58 Công ước Viên 1980 thì bên mua phải thanh toán tiền hàng theo đúng thời gian quy định trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng thì người mua phải có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng khi người bán chuyển giao hàng hoặc các giấy tờ liên quan đến hàng hóa theo quy định của hợp đồng. Nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng thì người bán có thể gửi hàng đi và với điều kiện là hàng hoặc giấy tờ liên quan đến hàng hóa chưa giao cho người mua nếu người mua chưa thanh toán tiền. Như vậy trong trường hợp này người mua có nghĩa vụ thanh toán trong thời gian hợp lí để nhận được hàng.
Nói chung về nghĩa vụ thanh toán của người mua thì Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 có nhiều quy định cụ thể, ngoài các quy định tương tự như Công ước Viên 1980, Bộ nguyên tắc còn quy định thêm các vấn đề như: công cụ thanh toán, đồng tiền thanh toán, khấu trừ từ các khoản thanh toán, đây thật sự là những quy định rất quan trọng vì thực tiễn thanh toán quốc tế là một vấn đề khá rắc rối, tuy nhiên do không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài nên Tác giả sẽ không đi sâu vào phân tích vấn đề này.
Nói tóm lại, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tạo lập quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia kí kết, các bên sẽ thực hiện hợp đồng thông qua việc thực hiện nghĩa vụ của mình trên cơ sở tính ràng buộc và hiệu lực của hợp đồng; các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng những gì mà hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng quy định. Trường hợp ngược lại, trách nhiệm sẽ được đặt ra đối với bên không thực hiện nghĩa vụ của mình. Phần tiếp theo của loạt bài về đề tài, tác giả sẽ phân tích về vấn đề này.
Viết tại Sài Gòn - Luật sư: Đặng Bá Kỹ!
[1] Đại học quốc gia thành phố TP. HCM, Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB. Đại học quốc gia TP.HCM, 2007, tr 6.
[2] Luật thương mại Việt Nam 1997, điều 80, 81.
[3] Luật thương mại Việt Nam 2005, điều 27.
[4] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB CAND, Hà Nội, 2007, tr 207.
[5]Đại học quốc gia thành phố TP. HCM, Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, sđd, tr 172.
[6] PGS.TS Mai Hồng Quỳ- ThS. Trần Việt Dũng, Luật Thương Mại Quốc Tế, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, 2005, tr 19.
[7] TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr 174-176.
[8] PGS.TS Nguyễn Văn Luyện – TS Lê Thị Bích Thọ - TS Dương Anh Sơn, Hợp đồng thương mại quốc tế, NXB CAND, 2004, tr 30.
[9] Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) : “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, Hà Nội. 2002, tr 30.
[10] Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam(VIAC) : “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, sđd, tr 66-67.
[11] TS. Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng kinh doanh quốc tế, NXB Trẻ TP.HCM, Hà Nội, 2004, tr 44.
[12] Đại học quốc gia thành phố TP. HCM, Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, sđd, tr 184.
[13] Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam(VIAC) : “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, sđd, tr 191-195.
[14] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, sđd, tr 381.
[15] Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam(VIAC) : “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, sđd, tr 35.
[16] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, sđd, tr 253.