HOÀN THIỆN ĐIỀU KHOẢN MIỄN TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM NGHĨA VỤ TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

        Thỏa thuận của các bên khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về trường hợp miễn trách nhiệm thường được gọi là điều khoản miễn trách nhiệm. Điều khoản này góp phần phân chia rủi ro, trách nhiệm giữa các bên khi xảy ra những sự kiện bất lợi gây thiệt hại đến giao dịch. Điều khoản này thường quy định những vấn đề như: những sự kiện được coi là trường hợp bất khả kháng (hoặc trường hợp miễn trách nhiệm), cách thức thông báo giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm, cách thức ứng xử của các bên khi khi xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm…

        Thực tiễn kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho thấy rằng hầu hết các bên đều có thỏa thuận và quy định điều khoản miễn trách nhiệm vào trong hợp đồng của mình. Và như đã nói đây là một điều hết sức quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do thiếu kinh nghiệm, thiếu kĩ năng hoặc cũng có thể là do sự yếu kém về trình độ mà có nhiều hợp đồng quy định về điều khoản miễn trách nhiệm còn khá sơ sài, nhiều sai sót, từ đó dẫn đến việc khi cần viện dẫn để áp dụng trên thực tế gặp nhiều khó khăn và gây nhiều tranh cãi. Chúng ta sẽ phân tích một vài ví dụ để làm rõ điều này.

        Chẳng hạn, trong hợp đồng mỡ bôi trơn số 01292 mà chúng ta đã có dịp đề cập, có quy định về điều khoản miễn trách nhiệm: Điều 10-Những bất ngờ không lường trước được: nếu xảy ra những tình huống cản trở hoàn toàn hoặc cản trở một phần việc thực hiện nghĩa vụ của các bên có sự ràng buộc với hợp đồng, chẳng hạn: hỏa hoạn, tình trạng tăng giá hoặc các sự cố khác như: chiến tranh, những chiến dịch quân sự, phong tỏa, ngăn cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hay bất kì một tình trạng nào đó nằm ngoài sự điều khiển của các bên  thì thời gian quy định cho việc thực hiện nghĩa vụ đó sẽ được gia hạn một khoảng thời gian bằng với khoảng thời gian mà tình trạng đó kéo dài. Nếu tình trạng trên kéo dài trên 20 ngày, một hoặc những đợt giao hàng mà phải được thực hiện theo hợp đồng này trong khoảng thời gian đó có thể được hủy bỏ khi có tuyên bố của bất kì bên nào; và nếu tình trạng trên kéo dài trên 40 ngày, mỗi bên có quyền không thực hiện tiếp toàn bộ các trách nhiệm của mình theo hợp đồng này và trong trường hợp như vậy không bên nào có quyền yêu cầu bên kia đền bù các thiệt hại có thể xảy ra. Bên không thể thực hiện các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng phải ngay lập tức thông báo cho bên kia về điểm bắt đầu và kết thúc của tình trạng cản trở và việc thực hiện các nghĩa vụ của mình. Giấy chứng nhận do phòng thương mại tương ứng ở nước người mua hoặc người bán cấp sẽ là bằng chứng đầy đủ cho tình trạng trên và thời gian kéo dài của tình trạng đó.

        Có thể nói điều khoản miễn trách nhiệm của hợp đồng mở bôi trơn số 01292 là một điều khoản quy định cụ thể hóa về trường hợp bất khả kháng. Những vấn đề có tính nguyên tắc chung liên quan đến trường hợp bất khả kháng chúng ta đã phân tích kĩ ở mục 3.1 của đề tài. Nên ở đây xin phép không nhắc lại. Phân tích điều khoản miễn trách nhiệm của hợp đồng nên trên, chúng ta thấy có một số nhược điểm sau:

  • Một là, điều khoản miễn trách nhiệm đã có quá thiếu sót khi đã không đưa ra được một cơ sở chung để xác định trường hợp bất khả kháng như: đó phải là một sự kiện khách quan vượt ra tầm kiểm soát của các bên, các bên không thể lường trước được hay dự đoán được và không thể tránh được hay khắc phục được. Chính vì thiếu sót này sẽ dẫn tới việc chúng ta rất khó có thể xác định được các sự kiện được nêu ra trong điều khoản miễn trách nhiệm như hỏa hoạn, tình trạng tăng giá…phải đạt đến mức độ nào thì mới được coi là căn cứ để miễn trách nhiệm. Vì như những phần trước đã phân tích không phải mọi khó khăn cản trở xuất hiện trong quá trình thực hiện hợp đồng đều được coi là căn cứ miễn trách nhiệm, nếu như những khó khăn cản trở đó không dẫn tới hậu quả là không thể khắc phục được.
  • Hai là, điều khoản thiếu chặt chẽ về mặt cú pháp. Thật vậy, điều khoản quy định rằng: “nếu xảy ra những tình huống cản trở hoàn toàn hoặc cản trở một phần việc thực hiện thực hiện nghĩa vụ của các bên có sự ràng buộc với hợp đồng, chẳng hạn: hỏa hoạn, tình trạng tăng giá hoặc các sự cố khác như: chiến tranh, những chiến dịch quân sự, phong tỏa, ngăn cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hay bất kì một tình trạng nào đó nằm ngoài sự điều khiển của các bên thì…”. Như vậy nếu theo quy định của điều khoản này thì cụm từ “nằm ngoài sự điều khiển của các bên” chỉ bổ nghĩa cho cụm từ “hay bất kì một tình trạng nào đó”. Điều đó cũng có nghĩa là các sự kiện được đề cập trước đó như: hỏa hoạn, tình trạng tăng giá, chiến tranh…không cần đến yếu tố “nằm ngoài sự điều khiển của các bên”. Như vậy có thể cho rằng các bên mặc nhiên coi các sự kiện đó đương nhiên là đã “nằm ngoài sự điều khiển của các bên”. Nhưng rõ ràng đó là điều không thật hợp lí. Chẳng hạn như sự kiện ngăn cấm xuất khẩu hay nhập khẩu có thể nằm ngoài sự điều khiển của các bên tham gia hợp đồng là doanh nghiệp tư nhân, nhưng chưa chắc chắn đã nằm ngoài sự điều khiển của bên tham gia hợp đồng là doanh nghiệp nhà nước. Và sự thật trong hợp đồng mỡ bôi trơn số 01292 một bên tham gia hợp đồng chính là doanh nghiệp nhà nước (tổng công ty xăng dầu petrolimex Việt Nam).
  • Ba là, điều khoản miễn trách nhiệm đã không quy định rõ ràng về nghĩa vụ thông báo khi xảy ra sự kiện bất khả kháng. Thật vậy, với quy định “Bên không thể thực hiện các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng phải ngay lập tức thông báo cho bên kia về điểm bắt đầu và kết thúc của tình trạng cản trở và việc thực hiện các nghĩa vụ của mình” chúng ta khó có thể xác định bên có nghĩa vụ phải “ngay lập tức” thông báo cho bên có quyền biết về tình trạng cản trở vào lúc nào. Nếu như việc thông báo phải “ngay lập tức” khi tình trạng cản trở xảy ra thì sẽ mâu thuẫn với cụm từ “phải thông báo cho bên kia về điểm bắt đầu và kết thúc của tình trạng cản trở” vì rằng vào lúc mới xảy ra tình trạng cản trở bên có nghĩa vụ không thể nào biết được thời điểm kết thúc của tình trạng đó. Ngược lại nếu để đến lúc tình trạng cản trở kết thúc mới thông báo cho bên có quyền biết thì trong rất nhiều trường hợp sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể cho bên có quyền. Trong khi đó như chúng ta đã từng phân tích nghĩa vụ thông báo là một trong các điều kiện để được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng, nhưng với những quy định trên đây thì chắc chắn rằng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề tranh cãi liên quan đến nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm hợp đồng.

Một ví dụ khác. Trong hợp đồng mua bán quốc tế của công ty ABC, điều khoản miễn trách nhiệm (điều 3) quy định: nếu việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng của bên bán bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp hay cản trở bởi bất  khả kháng, bao gồm nhưng không hạn chế đến: thiên tai, động đất, sóng thủy triều, lỡ đất, hỏa hoạn, bệnh dich, tai họa, hạn chế kiểm dịch, tai họa của biển, chiến tranh (tuyên bố hay không tuyên bố) hoặc sự đe dọa của chiến tranh, dân biến, bao vây, bắt giữ hoặc cầm giữ của chính phủ, nhà cầm quyền hay dân chúng, tịch thu tàu thủy, máy bay, đình công, bỏ xưởng, sự phá hoại ngầm hay là những tranh chấp lao động, nổ, tai nạn hay hỏng hóc toàn bộ hay một phần máy móc, nhà máy, công cụ vận tải hay phương tiện bốc hàng, yêu cầu của chính phủ, chỉ dẫn, mệnh lệnh hay sự quản lí của chính phủ, sự không sẵn sàng của các phương tiện vận tải hoặc công cụ bốc hàng, sự phá sản hoặc không trả được nợ của nhà sản xuất hoặc trong những trường hợp bất kì nào vượt khả năng khống chế hợp lí của người bán hoặc là nhà sản xuất hoặc nhà cung cáp hàng hóa, khi đó người bán sẽ không chịu trách nhiệm đối với thiệt hại hư hỏng, hoặc sự không thực hiện hay thực hiện chậm trễ những nghĩa vụ của mình theo hợp đồng này và có thể tùy ý mình kéo dài thời hạn giao hàng hoặc là về điều kiện kết thúc hợp đồng mà không có nghĩa vụ đối với phần chưa thực hiện theo hợp đồng này trong một chừng mực bị ảnh hưởng hay cản trở trên[1].

        Có thể nói rằng, điều khoản miễn trách nhiệm trên đây là một quy định khá lí tưởng cho bên có nghĩa vụ (bên bán), nhưng trên thực tế sẽ không có một bên tham gia còn lại nào (bên mua) chấp nhận kí hợp đồng với một điều khoản miễn trừ trách nhiệm như thế vì rằng nó chưa đựng quá nhiều sự bất hợp lí. Thật vậy, điều khoản miễn trách trên chính là một sự cụ thể hóa về sự kiện bất khả kháng, nhưng lại đưa vào dó những tình huống mà rất khó để nhận diện đó là “bất khả kháng”, chẳng hạn bên bán sẽ được miễn trách nhiệm, khi vi phạm nghĩa vụ do tranh chấp lao động, sự không có sẵn phương tiện vận tải hoặc công cụ bốc hàng…vì như đã phân tích ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng đến việc không thể thực hiện được nghĩa vụ phải mang tính chất “tuyệt đối” (absolument impossible) nếu sự kiện xảy ra chỉ làm cho việc thực hiện nghĩa vụ trở nên khó khăn hơn hay đòi hỏi nhiều chi phí hơn thì không đủ căn cứ để  miễn trách nhiệm. Ngoài ra điều khoản trên còn quy định: “khi xảy ra các sự kiện đã nêu thì bên bán có thể tùy ý kéo dài thời hạn giao hàng hoặc là vô điều kiện kết thúc hợp đồng mà không có nghĩa vụ đối với phần chưa thực hiện”. Đây là một quy định khó chấp nhận vì rằng: cứ cho rằng là có sự kiện bất khả kháng xảy ra nhưng nó chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng nếu dựa vào quy định trên và vẫn cho bên vi phạm nghĩa vụ vô điều kiện kết thúc hợp đồng là không thỏa đáng. Điều càng nghịch lí hơn ở chỗ là bên vi phạm nghĩa vụ lại tự cho mình quyền: tùy ý mình kéo dài thời hạn giao hàng! Từ đó có thể kết luận rằng: điều khoản miễn trách nhiệm nêu trên là một điều khoản thiếu thiện chí, thiếu trung thực và rất dễ bị lợi dụng trên thực tế, thậm chí là còn trái với quy định của pháp luật. Ngoài các bất hợp lí nêu trên, điều khoản trên còn mắc phải một số thiếu sót sau:

  • Một là, quá “mải mê” liệt kê các sự kiện cụ thể để được miễn trách nhiệm, điều khoản trên đã “bỏ quên” quy định về nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, một trong các điều kiện để trở ngại khách quan trở thành căn cứ miễn trách nhiệm. Do đó khi xảy ra tranh chấp đây sẽ là vấn đề gây nhiều tranh cãi và nếu không chứng minh được mình đã gửi thông báo trong một thời hạn hợp lí thì những nỗ lực trước đó của bên vi phạm nghĩa vụ về việc thiết kế các trường hợp miễn trách nhiệm có lợi cho mình sẽ không còn nhiều giá trị.
  • Hai là, đưa ra nhiều quy định không có ý nghĩa khi áp dụng trên thực tế. Thật vậy, điều khoản miễn trách nhiệm nêu trên quy định: “…sự không sẵn có các phương tiện vận tải hoặc công cụ bốc hàng, sự phá sản hay không trả nợ của nhà sản xuất hoặc là người cung cấp hàng”…Theo đó cụm từ “của nhà sản xuất hoặc là người cung cấp hàng” sẽ bổ nghĩa cho đoạn “sự không sẵn có các phương tiện vận tải hay công cụ bốc hàng”. Cho nên ở đây chúng ta không được hiểu “sự không sẵn có các phương tiện vận tải hoặc công cụ bốc hàng” là dành để nói về bên có nghĩa vụ (bên bán) vì trước đó điều khoản đã dùng dấu “.” Và tiếp theo là dấu “,” chứ không phải là dấu “;”. Cũng chính bởi thế, thiết nghĩa rằng thật khó để cơ quan giải quyết tranh chấp chấp nhận cho biện minh của bên vi phạm hợp đồng (bên bán) là việc không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng là do nhà sản xuất hoặc là người cung cấp hàng không sẵn có các phương tiện vận tải hoặc công cụ bốc hàng là sự kiện bất khả kháng để từ đó miễn trách nhiệm cho họ. Hay nói cách khác quy định trên thiếu giá trị thực tiễn.

Từ những phân tích trên, có thể nói rằng thực tiễn xây dựng điều khoản miễn trách nhiệm (điều khoản bất khả kháng) trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn nhiều hạn chế và bất cập. Cho nên việc xây dựng một điều khoản miễn trách nhiệm thật hợp lí nhằm thể hiện được bản chất của điều khoản miễn trách nhiệm là điều khoản giải thoát trong những trường hợp chính đáng, là hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. Thực tiễn khoa học pháp lí đã đưa ra nhiều phương pháp xây dựng điều khoản miễn trách nhiệm (điều khoản bất khả kháng) nhưng tựu trung lại có ba phương pháp cơ bản:

Phương pháp trừu tượng hóa

Theo phương pháp này các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ thỏa thuận và quy định trong hợp đồng về điều khoản bất khả kháng dưới dạng khái quát hóa và mang tính nguyên tắc chung. Chẳng hạn các bên có thể quy định về điều khoản bất khả kháng như sau: không bên nào phải chịu trách nhiệm cho việc không thực hiện các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng khi nguyên nhân của việc không thực hiện đó là do sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra sau khi kí kết hợp đồng này, mà các bên không thể nhìn thấy trước hoặc có khả năng dự đoán trước và khi nó xảy ra thì hậu quả là không thể tránh được hoặc khắc phục được. Ưu điểm của phương pháp này là đã đưa ra được các đặc tính chung để có thể nhận diện sự kiện bất khả kháng. Tuy nhiên cũng chính bởi thế mà nó khá chung chung, thiếu rõ ràng và gây khó khăn cho việc diễn giải. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có thể coi đây là phương pháp phù hợp với bên tham gia kết ước hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nào có trong tay các chuyên gia hàng đầu về luật hợp đồng. Vì rằng, khi mọi thứ càng mơ hồ, càng thiếu rõ ràng thì càng dễ vận dụng và đưa mọi thứ đi theo hướng có lợi cho mình, hơn nữa khi tranh chấp xảy ra, cơ quan tài phán sẽ giải thích vấn đề dựa vào rất nhiều ý kiến của các bên.

Phương pháp liệt kê

Theo phương pháp này, các bên khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ thỏa thuận và liệt kê trong điều khoản miễn trách nhiệm một loạt các sự kiện cho phép bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng được miễn trách nhiệm hay kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng. Một điều khoản như vậy thường sẽ được xây dựng theo hướng: không bên nào phải chịu trách nhiệm cho việc không thực hiện các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng khi nguyên nhân của việc không thực hiện đó xuất phát từ kết quả của thiên tai (bao gồm hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố hay thảm họa tự nhiên khác), dịch họa, chiến tranh, bom mìn còn sót lại sau chiến tranh, hành động của kẻ thù nước ngoài thù nghịch (có tuyên bố chiến tranh hay không), nội chiến, nổi loạn, cách mạng, khởi nghĩa, sức mạnh quân sự, sự trừng phạt của chính quyền, bao vây, cấm vận, bãi công, gián đoạn hoặc hỏng hóc của hệ thống điện (hoặc dịch vụ điện thoại…). Ưu điểm của phương pháp liệt kê là rõ ràng, cụ thể, các bên không cần phải tốn nhiều thời gian để chứng minh cho vấn đề, chỉ cần đúng trường hợp được liệt kê trong điều khoản là bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, nhược điểm lớn của phương pháp này là không thể nào có thể tính toán và liệt kê được hết tất cả các tình huống xảy ra trên thực tế có khả năng ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của các bên, và dù rằng tình huống đó có đầy đủ đặc điểm của một sự kiện bất khả kháng nhưng bên vi phạm vẫn không được miễn trách nhiệm bởi đơn giản vì tình huống đó đã bị “bỏ rơi” không được liệt kê vào điều khoản miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng.

Phương pháp tổng hợp

Đây là phương pháp kết hợp giữa phương pháp trừu tượng và phương pháp liệt kê. Do đó phần nào khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên, và được sử dụng nhiều trong thực tiễn hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo phương pháp này, điều khoản miễn trách nhiệm thường được xây dựng theo hướng, chẳng hạn như: “trong trường hợp xảy ra các sự kiện như hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, chiến tranh, bạo loạn, cấm vận, bao vây hoặc các hạn chế khác của chính phủ về xuất khẩu hay nhập khẩu và các sự kiện bất khả kháng khác, là những sự kiện xảy ra sau thời điểm kí kết hợp đồng, mà các bên không có khả năng dự đoán, kiểm soát và ngăn chặn, làm cho các bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình, thì bên đó sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc này.” Quy định về trường hợp miễn trách nhiệm (trường hợp bất khả kháng) như trên sẽ giúp các bên có được các tình huống cụ thể được coi là sự kiện bất khả kháng, đồng thời dự tính được những sự kiện khác có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm đó là chỉ chú ý về mặt sự kiện trong khi đó bất khả kháng, với nghĩa là một trong những căn cứ miễn trách nhiệm, là một điều khoản miễn trách nhiệm, cần phải hàm chứa được tất cả các nội dung có liên quan nhiều hơn như thế.

Có thể nói rằng, một điều khoản miễn trách nhiệm (điều khoản bất khả kháng) trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dù được xây dựng theo phương pháp nào, cũng phải chứa đựng trong nó các yếu tố cần thiết sau:

  • Một là, phải đưa ra một định nghĩa mang tính khái quát chung, trong đó chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu để xác định một sự kiện như thế nào được coi là trường hợp bất khả kháng.
  • Hai là, căn cứ vào bối cảnh cụ thể của việc thực hiện hợp đồng như thời điểm thực hiện hợp đồng, địa điểm thực hiện hợp đồng, phương thức thực hiện hợp đồng để từ đó có thể liệt kê được một số tình huống cụ thể được coi là sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn nếu việc thực hiện hợp đồng diễn ra ở quốc gia không có biển thì không cần thiết phải liệt kê vào điều khoản bất khả kháng các sự kiện như: sóng thần, thủy triều…
  • Ba là, cần phải có quy định cụ thể dự liệu về mặt thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng, nhằm xác định trước nếu thời gian diễn ra sự kiện bất khả kháng trong bao lâu thì các bên chỉ được hoãn thực hiện nghĩa vụ, được kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ và trong trường hợp như thế nào thì các bên chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ.
  • Bốn là, phải có quy định về việc thông báo của bên có nghĩa vụ khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, diễn biến của các sự kiện bất khả kháng, ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng đến việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, các phương án khắc phục đã được đưa ra và những tính toán tiếp theo…

Từ những phân tích và đánh giá trên đây, thiết nghĩ rằng, khi các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần đưa vào hợp đồng điều khoản miễn trách nhiệm (điều khoản bất khả kháng) với nội dung cơ bản sau đây:

Không bên nào phải chịu trách nhiệm do việc không thực hiện bất kì nghĩa vụ nào của mình trong hợp đồng khi nguyên nhân của việc không thực hiện đó là do chịu sự ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng, là các sự kiện xảy ra sau thời điểm kí kết hợp đồng này, vượt ra khỏi tầm kiểm soát hợp lí của các bên, các bên không thể nào nhìn thấy trước hay có thể dự kiến trước vào lúc kí kết hợp đồng, và khi sự kiện đó xảy ra hậu quả của nó là không thể tránh được hay có thể khắc phục được.

Các sự kiện có thể được coi là bất khả kháng như đã nêu trên bao gồm nhưng không chỉ bao gồm ở các sự kiện: bão tố, động đất, lũ lụt, phun trào núi lửa, sóng thần, hỏa hoạn, nổ và các thảm họa tự nhiên khác, chiến tranh, đảo chính, bạo loạn, tội phạm và các trường hợp tương tự khác, bao vây, cấm vận, quốc hữu hóa, sự điều chỉnh của pháp luật, các quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do chịu sự ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng phải thông báo cho bên có quyền biết về sự kiện đó trong một khoảng thời gian hợp lí, tính từ khi bên đó biết hoặc buộc phải biết về sự kiện bất khả kháng và thời gian dự tính mà sự kiện kéo dài cũng như các phương pháp khắc phục mà bên đó đã áp dụng hoặc dự tính áp dụng.

Trong trường hợp sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của các bên kéo dài trên 50 ngày (đây chỉ là một số ngày giả định, các bên khi giao kết hợp đồng cần tùy thuộc vào những vấn đề liên quan mà tính toán khoản thời hạn cho hợp lí) thì một trong các bên có quyền tuyên bố chấm dứt hợp đồng, nhưng phải sau khi đã thông báo cho bên kia biết. Trong trường hợp ngược lại, thời hạn thực hiện hợp đồng được kéo dài thêm một khoảng thời gian bằng với thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng.

Giấy chứng nhận do phòng thương mại tương ứng ở nước người mua hoặc nước người bán cấp sẽ là bằng chứng đầy đủ cho sự kiện bất khả kháng và thời gian kéo dài của sự kiện đó”.

Ngoài những nội dung cơ bản trên đây của điều khoản miễn trách mà tác giả đưa ra, các bên khi giao kết hợp đồng, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để từ đó bổ sung thêm những vấn đề cần thiết cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của hợp đồng.

Viết tại Sài Gòn - Luật sư: Đặng Bá Kỹ!

 


[1] TS. Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng kinh doanh quốc tế, tr 43.

Bình luận (0)


Bài viết liên quan